
Thursday, October 8, 2009
Vài nét về Thiền Vipassana tại Việt Nam hiện nay

Labels:
dharma,
Meditation,
Vipassana
Sunday, September 27, 2009
Thiền chữa trị thân tâm

Labels:
dharma,
Meditation
Sunday, September 20, 2009
Tư tưởng thiền học trong kinh Kim Cang

Cách thức nào không quan trọng. Song, một điều mà người học Phật cần phải lưu ý là cái chân lý thường nghiệm thì phi ngôn thuyết; nó có được do sự kinh nghiệm của mỗi người, như uống nước nóng lạnh tự biết; tự mình phải thâm chứng lấy những gì hàm dưỡng trong giáo lý, không phải chỉ để hiểu mà còn hành nữa. Nên con đường giải thoát của Phật giáo cốt ở ba kỷ luật: Giới, Định Tuệ. Giới nhằm điều chế phong thái bên ngoài, Định nhằm điều chế tâm tư, còn Tuệ nhằm hiểu biết chân xác. Sự hệ trọng của thiền định trong Phật giáo là vậy.
Labels:
Buddhism,
dhamma,
dharma,
lesson,
Meditation
Friday, September 18, 2009
Thiền một nét đẹp văn hóa học đường

Thiền, có xuất xứ từ Ấn Độ cổ đại, được xem là một phương pháp giáo dục con người một cách toàn diện, hướng con người đến Chân - Thiện -Mỹ, rèn luyện con người phát triển thể lực và trí lực một cách hài hòa và tốt đẹp. Giá trị lý luận và thực tiễn của Thiền càng được khẳng định khi hiện nay trên toàn thế giới, nhất là các nước phương Tây đang quan tâm và hướng về nó một cách tích cực.
Labels:
dhamma,
dharma,
Meditation
Tuesday, September 15, 2009
Thiền tập cho người bận rộn
Ngay khi mới thức dậy, bạn có thể mỉm cười liền lập tức, nụ cười này mang tính giác ngộ: bạn ý thức là một ngày mới được bắt đầu và hăm bốn giờ tinh khôi là món quà mà sự sống đang hiến tặng cho bạn. Đó là tặng phẩm quý giá nhất. Bạn có thể đọc thầm hoặc đọc lớn tiếng bài thơ này:
Thức dậy miệng mỉm cười
Hăm bốn giờ tinh khôi
Xin nguyện sống trọn vẹn
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Labels:
Meditation
Sunday, September 13, 2009
Ignorance

The four truths are (1) stress — which covers everything from the slightest tension to out-and-out agony; (2) the cause of stress; (3) the cessation of stress; and (4) the path of practice leading to the cessation of stress. When the Buddha first taught these truths, he also taught that his full Awakening came from knowing them on three levels: identifying them, knowing the skill appropriate to each, and knowing finally that he had fully mastered the skills.
Sunday, September 6, 2009
The Science of Meditation

And life here is not easy. Villagers bicycle to work before dawn and return home long after sunset. Many live with nothing more than dirt floors and rickety outhouses. Upon entering these modest mud-brick homes, you'll find no tables or chairs—just a long platform bed, which sleeps a family of eight. However, when the people invite you in for tea, their smiles are wide and welcoming. How do they possess such inner calm in conditions we would call less than ideal?
Labels:
Meditation,
Psycology
Wednesday, September 2, 2009
How to Live in the Moment

• Use a reminder of the string-around-your-finger variety. Wear your watch upside-down, put a quarter in your shoe, or put a smudge on one of the lenses of your glasses. When you notice it, let that serve as a reminder for you to notice your surroundings, become aware of your senses and your bodily sensations, and bring your focus into the present. If you get to the point where you're going entire days without noticing it, switch up the reminder.
Labels:
Meditation,
Mindful,
Psycology
The Art of Now: Six Steps to Living in the Moment
Life unfolds in the present. But so often, we let the present slip away, allowing time to rush past unobserved and unseized, and squandering the precious seconds of our lives as we worry about the future and ruminate about what's past. "We're living in a world that contributes in a major way to mental fragmentation, disintegration, distraction, decoherence," says Buddhist scholar B. Alan Wallace. We're always doing something, and we allow little time to practice stillness and calm.
Labels:
Meditation,
Psycology
Vài nét về Tâm lý học phổ thông và Tâm lý học Phật giáo

Saturday, August 29, 2009
Tâm lý liệu pháp Phật giáo, một chuyên ngành mới của Tâm lý học

Ngài Đạt-lai Lạt-ma và Hòa thượng Thích Nhất Hạnh là hai vị tu sĩ đã có sự ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến thành quả này trong những thập niên gần đây. Nhiều người phương Tây đã tìm thấy nguồn hạnh phúc của cuộc sống cho chính bản thân họ nhờ vào giáo lý của đạo Phật, không những thế họ còn khám phá ra một nguồn tri thức phong phú, dồi dào, mang đậm tính nhân văn và khoa học của đạo Phật.
Tuesday, August 25, 2009
Tiến trình tâm
Tiến trình tâm, tiếng Pāli gọi là Citta vīthi. Vīthi nghĩa là lộ trình, là diễn tiến, một dòng diễn tiến. Citta là tâm. Tâm tức là thức. Có 6 thức. Mặc dù 900 năm sau Đức Phật Niết Bàn, Thế Thân giới thiệu thêm 2 thức là Mạt-na và A-lại-da, nhưng 2 thức này không có gì mới lạ, nó nằm trong tiến trình tâm ngang qua 6 thức mà chúng ta sắp nói đến.
Nói có 6 thức là tùy hiện tượng mà gọi tên khác nhau thôi, sự thực khi một tâm hiện khởi nó diễn tiến qua một lộ trình gọi là tiến trình tâm. Ví như dòng điện, tác dụng lên bóng đèn thì sáng, tác dụng lên máy quạt thì cánh quạt quay, tác dụng lên bàn ủi thì sinh nhiệt, nhưng cũng chỉ do một dòng điện mà thôi. Dòng điện đó ví như dòng tâm hiện khởi ngang qua các căn vậy. Cũng ví như nước và sóng, gió nhẹ tác động lên nước thì sinh sóng lăn tăn. Bão lớn tác động lên nước thì sinh ra sóng thần, nhưng chỉ là nước đó thôi. Tùy duyên mà gọi.
Nói có 6 thức là tùy hiện tượng mà gọi tên khác nhau thôi, sự thực khi một tâm hiện khởi nó diễn tiến qua một lộ trình gọi là tiến trình tâm. Ví như dòng điện, tác dụng lên bóng đèn thì sáng, tác dụng lên máy quạt thì cánh quạt quay, tác dụng lên bàn ủi thì sinh nhiệt, nhưng cũng chỉ do một dòng điện mà thôi. Dòng điện đó ví như dòng tâm hiện khởi ngang qua các căn vậy. Cũng ví như nước và sóng, gió nhẹ tác động lên nước thì sinh sóng lăn tăn. Bão lớn tác động lên nước thì sinh ra sóng thần, nhưng chỉ là nước đó thôi. Tùy duyên mà gọi.
Monday, August 24, 2009
Bảy bước tu tập tâm
Tìm cầu quá nhiều dục vọng bên ngoài, tham sân si quá độ, những thứ này không thể mang đến thỏa mãn cho tâm hồn.
Chỉ có nhận ra tận gốc những khuyết điểm của tham sân si mang lại, đồng thời hiểu rỏ tình thương và từ bi thì mới có thể mang đến thanh thản chân thật cho tâm hồn
Thursday, August 20, 2009
The five Khandhas

Citta, cetasika and rupa are conditioned realities (sankhara dhammas). They arise because of conditions and fall away again; they are impermanent. One paramattha dhamma, nibbana, is an unconditioned reality (visankhara dhamma); it does not arise and fall away. All four paramattha dhammas are anatta, not self.
Labels:
Buddhism,
The five Khandhas
Wednesday, August 19, 2009
Meditations

In the space which thought creates around itself there is no love. This space divides man from man, and in it is all the becoming, the battle of life, the agony and fear. Meditation is the ending of this space, the ending of the me. Then relationship has quite a different meaning, for in that space which is not made by thought, the other does not exist, for you do not exist. Meditation then is not the pursuit of some vision, however sanctified by tradition. Rather it is the endless space where thought cannot enter. To us, the little space made by thought around itself, which is the me,is extremely important, for this is all the mind knows, identifying itself with everything that is in that space. And the fear of not being is born in that space. But in meditation, when this is understood, the mind can enter into a dimension of space where action is inaction. We do not know what love is, for in the space made by thought around itself as the me, love is the conflict of the me and the not-me. This conflict, this torture, is not love. Thought is the very denial of love, and it cannot enter into that space where the me is not. In that space is the benediction which man seeks and cannot find. He seeks it within the frontiers of thought, and thought destroys the ecstasy of this benediction.
Labels:
Buddhism,
Krishnamuti,
Meditation
Tuesday, August 18, 2009
The four immeasurables

The best way of cultivating wholesome attitudes towards all sentient beings is through meditation. Among the many topics of meditation taught by the Buddha, there are four specifically concerned with the cultivation of loving-kindness, compassion, appreciative joy and equanimity. These four are called the Four Immeasurables because they are directed to an immeasurable number of sentient beings, and because the wholesome karma produced through practising them is immeasurable. The four are also called the sublime states of mind because they are like the extraordinary states of mind of the gods.
By cultivating the wholesome attitudes of loving-kindness, compassion, appreciative joy and equanimity, people can gradually remove ill will, cruelty, jealousy and desire. In this way, they can achieve happiness for themselves and others, now and in the future. The benefit in the future may come through rebirth in the fortunate realms.
Labels:
Buddhism,
dhamma,
dharma,
lesson,
The four immeasurables
Monday, August 17, 2009
Crossing the Ocean of Life

Learning to Listen

`Similarly, when you expound the Dhamma, there must be no force involved. The Dhamma must flow spontaneously from the present moment according to circumstances. You know, it's strange, but sometimes people come to me and really show no apparent desire to hear the Dhamma, but there it is -- it just happens. The Dhamma comes flowing out with no effort whatsoever. Then at other times, people seem to be quite keen to listen. They even formally ask for a discourse, and then, nothing! It just won't happen. What can you do? I don't know why it is, but I know that things happen in this way. It's as though people have different levels of receptivity, and when you are there at the same level, things just happen.
Sunday, August 16, 2009
Giới thiệu về thiền Vipassana

Trải qua tiến trình thời gian, chúng ta sẽ kinh nghiệm tất cả sự lo âu, sự trạo hối và sự bất hòa. Khi chúng ta khổ, chúng ta không giữ nỗi khổ trong tâm chúng ta; thay vì , chúng ta làm phiền đến người khác. Rõ ràng , đây không phải là phương cách thích hợp để sống. Tất cả chúng ta mong muốn sống trong an bình giữa chúng ta và mọi người xung quanh. Sau hết , con người là những người sống trong xã hội; chúng ta phải sống và ban giao với họ. Làm thế nào chúng ta có thể sống một đời sống an bình? Làm thế nào chúng ta có thể duy trì an hòa trong chúng ta, và duy trì hòa bình và hài hòa xung quanh chúng ta?
Labels:
Buddhism,
Meditation,
Vipassana
Saturday, August 15, 2009
Vọng tâm phát sinh như thế nào

Thursday, August 13, 2009
Tu hành
Pháp môn mà ta tu học là pháp Vô-thượng, là Pháp chẳng có hình tướng gì, bởi vì nó là pháp ở trong tâm.
Xuất gia tu hành là vì mục đích tìm lại bản lai diện mục - khuôn mặt thật của mình trước khi được cha mẹ sanh ra. Khi các bạn chưa sáng tỏ việc này thì trí huệ chưa khai mở; cũng giống như mặt trăng bị mây đen che kín, không thể hiển xuất quang minh được.
Labels:
Buddhism
Wednesday, August 12, 2009
The Balanced Way

Labels:
Buddhism
Tuesday, August 11, 2009
Tuệ giác vô thường & vô ngã

Vô thường không phải là một ý tưởng hay một quan niệm mà là một tuệ giác. Rất nhiều người trong chúng ta cố bám lấy ý niệm về thường còn, vững chắc. Khi nghe đến giáo lý vô thường, họ đâm ra lo sợ. Nhưng vô thường không phải là tiêu cực mà có khi rất tích cực. Bất cứ điều gì cũng đều vô thường, kể cả bất công, nghèo khổ, ô nhiễm, và hiện tượng “trái đất nóng lên” (global warming). Trong cuộc sống ta có thể gặp phải hiểu lầm, bạo lực, xung đột, tuyệt vọng nhưng vì vô thường nên chúng có thể được chuyển hóa nếu ta có tuệ giác trong nếp sống hiện tại.
Labels:
Buddhism
Tâm sở hữu

“Có” là phải giữ gìn cũng hơi mệt rồi, nói chi đến vật hay người chưa là “của ta” mà đã có tâm sở hữu.
Bạn thử nhìn một mối tương giao vừa có trong đời. Nếu người bạn đó mình có hơi thiện cảm một chút, thấy họ vui vẻ thái quá với ai, trong tâm đã nghe không bằng lòng, dù mình không có quyền gì để bằng lòng hay không bằng lòng.
Nhận ra kịp thì còn kịp quán chiếu để thả lỏng tâm quan sát và theo dõi đương sự ra, nếu không nhận ra thì quả nhiên đã chuốc sầu khổ vào tâm. Người ngòai biết đều nói, “hắn ta thật vô lý, người đó đã là gì của hắn đâu mà theo dõi kỹ thế!” Nhưng người trong cuộc thì tâm trí cứ ràng ràng buộc buộc những người quanh mình vào tâm. Đâu phải chỉ một người, vì ta có thể có thiện cảm với nhiều người, nhiều vật. Vật mình thích mà người khác có, cũng đã không vui rồi.
Khi nhận ra và biết rằng vô lý, nhưng vẫn không sao thoát khỏi tâm cứ khởi những tư tưởng, gọi chung là “đố kỵ”. Lúc nhỏ thì dùng danh từ “cà nanh”, khi cà nanh tình thương cha mẹ đối với anh em mình, tuy thế chữ “cà nanh” nghe cũng dễ thương hơn (không biết có phải đọc trại ra từ chữ “ganh” hay không).
Labels:
Buddhism
Saturday, August 8, 2009
Ăn chay

II.- Vì sao Phật Tử phải ăn chay: Ðôi khi người ta gọi đạo Phật là đạo Từ Bi, người tu theo đạo Phật để giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử, khổ đau, đem niềm vui lại để bớt khổ cho mọi người, yêu thương mọi loại thú cầm, cùng nhau chung sống trong hòa bình và an vui. Do đó đức Phật dạy Phật tử phải ăn chay để tránh quả báo xấu, để tăng trưởng lòng từ, để mọi người và thú cầm cũng cùng nhau chung sống trong hòa bình, an vui.
Saturday, July 18, 2009
Áp dụng thiền Vipassana trong điều trị các bệnh tâm thần

Thật ra, thiền là hơi thở, là nước uống, là cái gì rất đơn giản trong cuộc sống hàng ngày, thiền là sự chú tâm không mong cầu. Theo người viết, điều duy nhất cần để tập thiền là một động cơ thật mạnh. Nỗi khổ đau do bệnh tật và sự chết là động cơ mạnh nhất và là đối tượng giải thoát của thiền. Do đó, người bị bệnh tâm thần có một điều kiện không phải người tập thiền nào cũng có được: đó là một động cơ rất mạnh. Động cơ mạnh sẽ dẫn đến sự kiên trì bền bỉ, điều kiện duy nhất cần để đạt những tuệ giác khi hành thiền.
Labels:
Buddhism,
Meditation,
Psycology,
Vipassana
Friday, July 17, 2009
The Value of Anapana and Vipassana in Psychological and Psychosomatic Illnesses
It is important to note that physical and mental well-being are by-products and not the goals of Vipassana meditation. For the diligent meditator, nibbana, the washing away of all mental impurities, is the goal. Self-purification by self-observation is the process by which this washing away occurs, which may sound similar to "working through" in psychoanalysis. Purification means removal of greed, anger and ignorance, which are considered to be mental pollutants. During Vipassana, body and mind experience the reality of impermanence and change (anicca). The sense of self, ego, will be altered and egolessness will prevail. Equanimity is cultivated in all situations.
Labels:
Buddhism,
Meditation,
Psycology,
Vipassana
Thursday, July 16, 2009
Vô thường

Labels:
Buddhism
Wednesday, July 15, 2009
Tập sống hạnh buông xả
.jpg)
Tất cả mọi cố gắng của bạn để làm sao mình có được danh phận và đồng tiền. Vì hai sự kiện này rất cần thiết trong một đời sống có an lạc và hạnh phúc. Những cao sang vật chất đóng phần rất quan trọng cho một đời sống ổn định. Để từ đó, bạn cảm thấy mình bớt âu lo và sợ hãi hơn. Do vậy, bạn cần phải kiên trì học hành, vươn lên trong cuộc sống và nỗ lực làm việc. Mọi suy nghĩ tiêu cực và oán ghét cuộc đời thường dễ đưa bạn đến sự hủy diệt sự sống và chẳng giúp gì nhiều cho bạn có được một tâm hồn an lạc và hạnh phúc.
Sunday, July 12, 2009
Hãy quay về nương tựa chính mình

Âu Mỹ mới đi sâu nghiên cứu về Thiền chừng khoảng nửa thế kỷ nay và những năm gần đây, Thiền đã chính thức được coi như là một phương pháp trị liệu. Nhiều trường Đại học Y khoa lớn trên thế giới đã nghiên cứu và ứng dụng.
Labels:
Buddhism,
Happiness,
Life,
Meditation
Bình yên từ trong tâm

Vậy thì điều đầu tiên bạn phải làm là tìm một chút yên lặng mỗi ngày để quan sát mình. Ngồi yên trong một góc công viên thanh vắng, hay đóng cửa phòng ngủ và tắt nhạc, đương nhiên là bớt đi được một tí ồn ào, nhưng chưa chắc như vậy đã là yên lặng. Bởi vì trong đầu chúng ta thường có nhiều “tiếng động”, như là bận rộn suy tính công việc, lo lắng, giận ai đó, bực mình điều gì đó.
Labels:
Buddhism
Saturday, July 11, 2009
Giá Trị Giáo Dục Phật Giáo Trong Xã Hội Ngày Nay

Giá trị giáo dục của Phật giáo – một giá trị nhân bản sâu sắc
Đạo Phật đã ra đời trong một thực tại đa diện, phồn tạp của nền văn minh Ấn Độ, xuất hiện để dung hòa các trào lưu tư tưởng đối nghịch, để san bằng những ngăn cách xã hội giữa các đẳng cấp. Rồi từ những căn bản đó, Phật giáo đã duỗi dài nguyên lý vào cuộc sống con người khắp mọi nơi. Trong cội rễ sâu xa, ngay từ khởi thủy tư tưởng giáo dục của triết lý Phật giáo đã mang trong mình những giá trị nhân bản chung toàn nhân loại. Đặc trưng cơ bản nhất đó là tính toàn vũ trụ, toàn diện, tổng hợp. Trong đó lòng Từ bi – Bình đẳng – Vô ngã cùng sự hướng thiện mà đạo Phật muốn giáo dục con người với mục đích “cứu khổ” là quan trọng nhất.
Labels:
Buddhism
Ba công dụng của Đạo Phật

Ba công dụng đó là:
Một, nhân cách chúng ta phải ngày được hoàn thiện.
Hai, cuộc sống chúng ta phải ngày càng thêm hạnh phúc, vui tươi và kèm theo, chúng ta sẽ thêm sức khỏe, đỡ bệnh tật.
Ba, cống hiến của chúng ta cho xã hội, gia đình và cho sự nghiệp bản thân này càng nhiều, cụ thể và phong phú.
Labels:
Buddhism
Nền Tảng Xây Dựng Đời Sống Đạo Đức Theo Phật Giáo

Thursday, July 2, 2009
Tích hợp Vật Lý và Phật Học
Liệu có thể tìm một dạng học thuyết mô tả được thống nhất các hiện tượng vật lý và những hiện tượng thuộc phạm vi tâm linh. Đó sẽ là một dạng lý thuyết thống nhất lớn mà con người có thể nghĩ đến. Trong hiện trạng những vấn đề tâm linh vẫn đang ở trong trong phạm trù triết học thì lý thuyết thống nhất đó có thể là một sự tích hợp giữa vật lý và triết học
Trong vòng hơn 2500 năm Phật học đã tích lũy quá trình suy tư của nhiều tu sĩ minh triết để hình thành một học thuyết sâu sắc về thế giới khách quan lẫn thể giới tâm linh. Có thể nói Phật học là một học thuyết về nguyên lý đã bao trùm cả vật lý học (chuyên nghiên cứu thế giới khách quan) và cả tâm linh học (chuyên nghiên cứu những vấn đề thuộc tâm linh - theo Phật học thì tâm linh là một phạm trù song đối với thể xác), vậy thì Phật học có thể nói là một học thuyết có tính thống nhất cao hơn cả vật lý.
GS.TS. Cao Chi
Theo Einstein thì Phật học có thể là tiền thân của một sự tích hợp như vậy. Ông nói: "Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với những nhu cầu khoa học tiền tiến thì đó là Phật giáo". (If there is any religion that would cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
Trong vòng hơn 2500 năm Phật học đã tích lũy quá trình suy tư của nhiều tu sĩ minh triết để hình thành một học thuyết sâu sắc về thế giới khách quan lẫn thể giới tâm linh. Có thể nói Phật học là một học thuyết về nguyên lý đã bao trùm cả vật lý học (chuyên nghiên cứu thế giới khách quan) và cả tâm linh học (chuyên nghiên cứu những vấn đề thuộc tâm linh - theo Phật học thì tâm linh là một phạm trù song đối với thể xác), vậy thì Phật học có thể nói là một học thuyết có tính thống nhất cao hơn cả vật lý.
Tâm linh khoa học trong Phật Pháp

Hoà Thượng Thích Duy Lực
TT. Thích Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
TT. Thích Đồng Thường Ghi Thành Văn Tự
Sự phát triển của khoa học hiện đại đã tiến tới rất cao, nhưng chỉ hướng về mặt công trình hiển tánh mà phát triển, đối với mặt công trình ẩn tánh, hình như chẳng biết gì cả. Vì chẳng biết nên phủ nhận sự tồn tại của nó.
Kỳ thật, cấu tạo con người chia làm 2 bộ phận: Thể xác và tinh thần. Như thấy hình ảnh trong gương của ta chỉ là bề ngoài của ta, giải phẩu sinh lý của ta chỉ là thể xác của ta, đều chẳng phải chân thật ta.
Chân thật ta là thể tinh thần, cũng gọi là tâm linh. Trí tuệ của thể tinh thần thông qua của ngũ giác quan (xem, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc) thì có thể cảm nhận hiện tượng bên ngoài.
Vật lý khoa học hiện đại đều lấy ngũ giác quan làm chủ, những máy móc tối tân chỉ là khuếch trương thêm sự cảm nhận của ngũ giác quan, nghĩa là có thể nhìn xa hơn và nghe xa hơn mà thôi.
Sunday, June 28, 2009
Năm Triền cái

Tỳ kheo Brahmavamso
Binh Anson lược dịch
Binh Anson lược dịch
Chướng ngại chính cản trở sự thành công trong hành thiền và phát tuệ giải thoát thường có dạng của một trong năm loại triền cái. Toàn thể pháp hành đưa đến Giác ngộ có thể được diễn tả như một nỗ lực để vượt qua năm chướng ngại nầy, đầu tiên là tạm thời đè nén chúng để đắc thiền-na và phát tuệ minh sát, rồi dần dần chế ngự chúng một cách vĩnh viễn qua công phu phát triển Bát Chánh Đạo.
Năm chướng ngại đó là gì? Đó là:
- Tham dục (Kamacchanda)
- Sân hận (Vyapada)
- Hôn trầm (Thina-middha)
- Trạo cử (Uddhacca-kukkucca)
- Hoài nghi (Vicikiccha)
Labels:
Buddhism,
Meditation
Saturday, June 27, 2009
Tình thương trong đạo Phật

Thích Nhuận Hải
Có nhiều người cho rằng đạo Phật là đạo diệt dục, là đạo lý dạy con người diệt trừ tất cả mọi ước mơ, mọi mong muốn, mọi thương yêu, là giáo lý bi quan yếm thế… Nói như vậy quả là một ngộ nhận rất lớn và chứng tỏ là họ chưa hiểu gì về đạo Phật. Trong khi đó giáo lý về tình thương là một đề tài rất lớn mà đức Phật luôn đề cập đến trong nhiều kinh, được xem là vấn đề cốt tuỷ trong đạo Phật.
Labels:
Buddhism,
The Four Sublime States
Friday, June 26, 2009
The Four Noble Truths

To live means to suffer, because the human nature is not perfect and neither is the world we live in. During our lifetime, we inevitably have to endure physical suffering such as pain, sickness, injury, tiredness, old age, and eventually death; and we have to endure psychological suffering like sadness, fear, frustration, disappointment, and depression. Although there are different degrees of suffering and there are also positive experiences in life that we perceive as the opposite of suffering, such as ease, comfort and happiness, life in its totality is imperfect and incomplete, because our world is subject to impermanence. This means we are never able to keep permanently what we strive for, and just as happy moments pass by, we ourselves and our loved ones will pass away one day, too.
2. The origin of suffering is attachment.
The origin of suffering is attachment to transient things and the ignorance thereof. Transient things do not only include the physical objects that surround us, but also ideas, and -in a greater sense- all objects of our perception. Ignorance is the lack of understanding of how our mind is attached to impermanent things. The reasons for suffering are desire, passion, ardour, pursuit of wealth and prestige, striving for fame and popularity, or in short: craving and clinging. Because the objects of our attachment are transient, their loss is inevitable, thus suffering will necessarily follow. Objects of attachment also include the idea of a "self" which is a delusion, because there is no abiding self. What we call "self" is just an imagined entity, and we are merely a part of the ceaseless becoming of the universe.
3. The cessation of suffering is attainable.
The cessation of suffering can be attained through nirodha. Nirodha means the unmaking of sensual craving and conceptual attachment. The third noble truth expresses the idea that suffering can be ended by attaining dispassion. Nirodha extinguishes all forms of clinging and attachment. This means that suffering can be overcome through human activity, simply by removing the cause of suffering. Attaining and perfecting dispassion is a process of many levels that ultimately results in the state of Nirvana. Nirvana means freedom from all worries, troubles, complexes, fabrications and ideas. Nirvana is not comprehensible for those who have not attained it.
4. The path to the cessation of suffering.
There is a path to the end of suffering - a gradual path of self-improvement, which is described more detailed in the Eightfold Path. It is the middle way between the two extremes of excessive self-indulgence (hedonism) and excessive self-mortification (asceticism); and it leads to the end of the cycle of rebirth. The latter quality discerns it from other paths which are merely "wandering on the wheel of becoming", because these do not have a final object. The path to the end of suffering can extend over many lifetimes, throughout which every individual rebirth is subject to karmic conditioning. Craving, ignorance, delusions, and its effects will disappear gradually, as progress is made on the path.
Link source: http://www.thebigview.com/buddhism/fourtruths.html
Labels:
Buddhism,
The Four Noble Truths
The Noble Eightfold Path

The Noble Eightfold Path describes the way to the end of suffering, as it was laid out by Siddhartha Gautama. It is a practical guideline to ethical and mental development with the goal of freeing the individual from attachments and delusions; and it finally leads to understanding the truth about all things. Together with the Four Noble Truths it constitutes the gist of Buddhism. Great emphasis is put on the practical aspect, because it is only through practice that one can attain a higher level of existence and finally reach Nirvana. The eight aspects of the path are not to be understood as a sequence of single steps, instead they are highly interdependent principles that have to be seen in relationship with each other.
Labels:
Buddhism,
dhamma,
dharma,
The Noble Eightfold Path
Bát chánh đạo

Trích "Phật Học Phổ Thông"
HT. Thích Thiện Hoa
A. Mở Ðề
Trong 37 món trợ đạo, Bát Chánh đạo là một pháp môn chính, được nhắc nhở đến nhiều nhất. Vì thế, mỗi khi nói đến Ðạo đế là người ta liên tưởng đến Bát Chánh đạo. Thậm chí có người tưởng lầm rằng Ðạo đế với Bát Chánh đạo là một.
Sở dĩ Bát Chánh đạo được xem là pháp môn chính của Ðạo đế, vì pháp môn nầy rất đầy đủ có thể bao gồm được các pháp môn khác của Ðạo đế. Nó rất phù hợp với mọi căn cơ, mọi thời đại, mọi phương sở; đối với Tiểu Thừa cũng như Ðại Thừa, người Ðông phương cũng như Tây phương ai ai cũng đều công nhận giá trị hoàn toàn cao cả của Bát Chánh đạo, và đeù áp dụng pháp môn nầy trong sự tu hành của mình để doạn trừ phiền não khổ đau, hầu bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.
Labels:
Buddhism,
dhamma,
dharma,
The Noble Eightfold Path
Thực hành Từ Bi Hỷ Xả trong đời sống hàng ngày

Vào thời Đức Thế Tôn còn tại thế, rất nhiều người theo Bà la môn giáo tin rằng sau khi chết họ sẽ được sanh lên Trời sống với đấng Phạm Thiên (Brahma) bất tử . Một hôm có một vị Bà la môn đến hỏi Đức Phật rằng, con người nên làm gì để có thể biết chắc là mình sẽ hoà cùng với đấng Phạm Thiên sau khi chết . Đức Phật đã dạy :" Phạm Thiên chính là suối nguồn của tình thương, vì vậy muốn hòa mình cùng đấng Phạm Thiên ông phải thực tập tứ vô lượng tâm là Từ, Bi, Hỷ, Xả…"Từ" tiếng Sanskrit là Maitri, tiếng Pàli là Metta . "Bi" là Karuna và "Hỷ" là Mudita theo cả hai hệ thống ngôn ngữ "Xả" tiếng Sanskrit là Upeksha và tiếng Pàli là Upekkha . Tứ vô lượng tâm là bốn trạng thái của tình thương yêu chân thật . Chúng được gọi là vô lượng bởi vì nếu bạn thực tập những trạng thái tâm này, chúng sẽ gia tăng hàng ngày cho đến khi bao trùm cả vũ trụ . Bạn sẽ trở nên hạnh phúc hơn và những người quanh bạn cũng trở nên hạnh phúc hơn nhờ thực tập Tứ vô lượng tâm này.
Labels:
Buddhism,
dharma,
The Four Sublime States
Monday, June 22, 2009
Tìm hiểu đạo phật

Trích "Phật học tinh hoa" - Đức Nhuận
VIỆN TRIẾT LÝ VIỆT NAM & TRIẾT HỌC THẾ GIỚI
VIỆN TRIẾT LÝ VIỆT NAM & TRIẾT HỌC THẾ GIỚI
Sao trăng có thể rơi
Núi đá có thể lở
Biển đại dương có thể cạn
Lời nói của đức Phật trăm kiếp ngàn đời vẫn Như Thật
- Kinh Dược Sư
"Hỡi chư tăng, tựa như nước của bể cả chỉ thấm nhuần một hương vị: Hương vị mặn của muối. Đạo lý của ta cũng chỉ thấm nhuần một hương vị: Hương vị của đạo Giải Thoát."
Núi đá có thể lở
Biển đại dương có thể cạn
Lời nói của đức Phật trăm kiếp ngàn đời vẫn Như Thật
- Kinh Dược Sư
"Hỡi chư tăng, tựa như nước của bể cả chỉ thấm nhuần một hương vị: Hương vị mặn của muối. Đạo lý của ta cũng chỉ thấm nhuần một hương vị: Hương vị của đạo Giải Thoát."
Labels:
Buddhism
Sunday, June 21, 2009
Compassion as the Source of Happiness

His Holiness the Fourteenth Dalai Lama
Transcribed and lightly edited by Alexander Berzin
With clarifications indicated in violet between square brackets
We are here; we exist and we have the right to exist. Even non-sentient beings like flowers have the right to exist. If negative force is exerted against them, then, on a chemical level, flowers repair themselves to survive. But [more than that], we human beings including insects, even amoebas, the smallest beings are considered sentient beings. [And as sentient beings, we have even more mechanisms to help us survive.
Labels:
Buddhism,
compassion,
Happiness
Friday, June 19, 2009
Lòng từ bi, nền tảng của hạnh phúc của con người

Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: HT.Thích Trí Chơn
Trích từ cuốn sách: "Compassion: The Basis For Human Happiness"
Tôi nghĩ mọi người ai cũng đề cao cái "Tôi" của mình. Chúng ta không thể giải thích tại sao, nhưng sự thực nó là như vậy. Từ đó, con người muốn có hạnh phúc và không thích khổ đau. Đây là điều hợp lý bởi lẽ các bạn có quyền mưu tìm để thành đạt có được hạnh phúc càng nhiều càng tốt, và quý vị cũng có quyền lẫn tránh khổ đau.
Toàn thể lịch sử loài người đã phát triển trên căn bản của ý tưởng này. Thực vậy, theo quan điểm Phật giáo, nó không chỉ giới hạn trong thế giới con người mà ngay cả loài côn trùng bé nhỏ nhất, tất cả đều cố gắng mong có được hạnh phúc và lánh xa khổ đau.
Labels:
Buddhism,
compassion,
Happiness
Lòng từ bi là nền tảng của hòa bình thế giới

Nguyên tác: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Chơn(Trích từ tập sách “A Human Approach to World Peace”)
Chuyển ngữ: Hòa Thượng Thích Trí Chơn(Trích từ tập sách “A Human Approach to World Peace”)
English version: http://www.dalailama.com/page.62.htm#Compassion_pillar_world_peace
Labels:
Buddhism,
compassion,
Peace
Wednesday, June 17, 2009
Phật giáo, nền tảng của Khoa học
Trích từ quyển: "Phật Giáo, nền tảng của khoa học"
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch
Hòa thượng Prayudh Payutto
Tỳ kheo Thích Tâm Quang dịch
Vietnamese version: http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-pgkh/pgkh-00.htm
English version: http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budscience/bfs-00.htm
English version: http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/budscience/bfs-00.htm
GIỚI HẠN CỦA KIẾN THỨC KHOA HỌC
Bây giờ chúng tôi muốn đề cập đến những giới hạn về kiến thức và nghiên cứu của khoa học. Trở lại như đã nói trước đây, chúng tôi có nói đến bản chất khác biệt và phạm vi đối tượng của chúng ta về kiến thức gợi lên một số nhận định. Chúng tôi có nói rằng Phật Giáo nghiên cứu phạm vi con người và xác nhận hiểu thấu sự thực của con người là có thể hiểu được trọn vẹn vũ trụ, trong khi khoa học chỉ đặt trọng tâm vào sự nghiên cứu thế giới bên ngoài mà kiến thức này chỉ đưa đến sự hiểu biết về thế giới vật chất. Cùng tột kiến thức này chỉ đưa đến ranh giới của tâm mà thôi vì nó chỉ ảnh hưởng thế giới vật chất (và ngược lại) trong một phạm vi giới hạn.
Monday, June 15, 2009
Làm thế nào để giác ngộ
Tỳ Khưu Bodhi
Bình Anson lược dịch
Danh từ “phật-đà” (buddha) đã được biết và sử dụng trước khi Đức Phật lịch sử xuất hiện tại Ấn Độ. Danh từ này có nghĩa là “giác ngộ”, và các đạo sĩ thời đó thường bàn luận về câu hỏi “Thế nào là một vị Phật? Ai là người giác ngộ?” Một lần nọ, có một vị đạo sĩ già, tên Brahmayu, nghe tin có ngài ẩn sĩ Cồ-đàm, người ta tin rằng là một vị Phật, vừa du hành đến thị trấn của ông ta, nên ông quyết định đến thăm Ngài (Trung bộ, kinh 91). Khi đạo sĩ Brahmayu đến nơi Đức Phật ngự, Ngài đang thuyết giảng cho hội chúng cư dân vùng đó. Hội chúng ấy thấy đạo sĩ Brahmayu từ xa đi đến, liền nhường chỗ cho ông vì ông được nhiều người biết đến và có danh tiếng. Biết ông là một vị bà-la-môn đáng kính, bậc thầy có nhiều đệ tử, Đức Phật mời ông đến trước hội chúng và ngồi cạnh Ngài.
Labels:
Buddhism
Sunday, June 14, 2009
Xây dựng hôn nhân theo con đường phật giáo
Nhiều người cho rằng Phật Giáo mang tư tưởng xuất thế nên không chủ trương có gia đình, không khuyến khích kết hôn, cũng tương đồng với việc cho rằng người theo đạo Phật đều phải xuất gia. Thật ra, đây là một quan niệm sai lầm.
Vào thời Đường, thời Tống cư sĩ tại gia của Phật Giáo rất phát triển, điều này được chứng minh bởi các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc Phật Giáo như văn bia, tranh họa, tác phẩm điêu khắc, Đôn Hoàng Thạch Quật... đã miêu tả rất đậm nét các mối quan hệ trong cuộc sống gia đình, quan hệ hôn nhân... Sau thời Nguyên Phật Giáo từ từ lui vào chốn sơn lâm, xa rời quần chúng, điều này càng làm cho quần chúng ngộ nhận cho rằng Phật Giáo là tiêu cực và chạy trốn hiện thực. Từ đó, dẫn đến việc nhiều người khi thấy con cái gần chùa, gần thầy liền lo sợ con mình sẽ đi tu, gia đình sẽ tuyệt tự. Kỳ thật, gần thầy, gần chùa chưa chắc đã xuất gia vì không phải bất kỳ ai cũng có thể xuất gia được.
Labels:
Buddhism
Saturday, June 13, 2009
Đạo đức và hạnh phúc

Viên Trí
Mọi người hẳn sẽ nhất trí với lời phát biểu rằng đạo đức là giá trị cao quý nhất đối với cuộc sống con người trong mọi thời đại, đặc biệt là thế giới ngày nay. Từ điển Graw Hill Book định nghĩa: “Đạo đức là môn học đánh giá các hành vi thiện ác của con người biểu hiện qua thân, lời, ý và được thực hiện bởi tình cảm và ý chí”. Theo Aristote, “Mục đích trực tiếp của con người không phải là cái hay, cái đẹp mà chính là hạnh phúc. Hạnh phúc là sự phát triển hoàn toàn đầy đủ các đức tính của một con người... Hạnh phúc đồng nghĩa với đạo đức.”
Friday, June 12, 2009
Sống trong hiện tại
Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải
Labels:
Buddhism
Công dụng của Giới đức
Bình Anson lược dịch
Tỳ kheo Thanissaro là một tu sĩ người Mỹ, viện chủ thiền viện Metta (Từ bi), bang California, Hoa Kỳ.
-oOo-
Labels:
Buddhism
Subscribe to:
Posts (Atom)